Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014

Keith Jarrett – Koln concert: suối nguồn cảm xúc

Keith Jarrett – Koln concert: suối nguồn cảm xúc


Sẽ không thể chinh phục ngay từ lần nghe đầu tiên nhưng album Koln concert sẽ thấm dần vào tâm hồn bạn lúc nào không hay cho đến khi bạn chợt phát hiện ra rằng, “giấc ngủ hôm nay khó đến chỉ vì chưa nghe Keith Jarrett!” . Một album hoàn toàn của cảm xúc và ngẫu hứng, trước khi ngồi xuống ghế bên cây dương cầm, Keith vẫn hoàn toàn chưa định sẵn mình sẽ biểu diễn gì.
Không có một nhạc cụ nào khác ngoài tiếng dương cầm của Keith nhưng đủ để làm quên tất cả về cuộc sống ồn ã tất bật “ngoài kia”. Không quá trầm mặc như George Winston ở album December, cảm giác khi nghe Koln concert rất thanh thoát, nhẹ nhàng, thật sự như một dòng suối mềm mại và uốn lượn, khó ai có thể tin rằng 66 phút âm nhạc trau chuốt kia là hoàn toàn ngẫu hứng. Những album ngẫu hứng khác thường có những phút sa đà vào phô diễn kỹ thuật, còn Keith chẳng buông một nốt nhạc nào thừa. Đôi lúc, dường như ý nhạc, cảm xúc thoát ra ở những đầu ngón tay vẫn chưa đủ, Keith hay phát ra những âm thanh vô nghĩa mà có người đã gọi là khuynh hướng “hát theo tiếng dương cầm” (!), một đặc trưng khác của Keith Jarrett. Lắng nghe thật kỹ thỉnh thoảng còn nghe được tiếng nhịp chân nhè nhẹ. Do chỉ là những cảm hứng bất chợt nên không phần trình bày nào có tên, phần 1 dài 26 phút, phần 2 dài 40 phút lại được chia thành ba track nhạc. Một điểm thú vị nho nhỏ: khoảng từ  giây 18 của phút thứ 7, phần 1, có nét nhạc hao hao giống Where do I begin, kéo dài chưa tới một phút …

Buổi diễn tại Koln ngày 24/1/1975 trở thành lịch sử nhưng hãng ECM (chuyên về dòng jazz) vẫn được cho là đã khá táo bạo khi phát hành một album live chỉ gồm độc tấu piano hoàn toàn ngẫu hứng, không bài bản. Nhưng một lần nữa, sự mạo hiểm chứng tỏ được giá trị của mình, Koln concert được xếp ngang với những album jazz kinh điển như Bitch brews, A love supreme …
Trí Quyền

Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014

Khoảng không riêng tư trong âm nhạc

Khoảng không riêng tư trong âm nhạc

Viết cho Nhịp sống Sài Gòn dịp tết 2011

Ngày tết với người “Sài Gòn gốc” thường là những cảm giác trộn lẫn. Trong khi dân tứ xứ đổ xô về quê ăn Tết, người Sài Gòn không có quê để về. Nhưng ở lại Sài Gòn những ngày tết là một không khí rất khác, khác hẳn với sự xô bồ, ồn ào hàng ngày. Đường phố vắng lặng, yên tĩnh, có thời gian tư lự, nghiền ngẫm một số thứ mà trong năm cứ trôi tuột đi vì guồng sống. Tôi nghe lại một số đĩa nhạc của năm 2011 và phát hiện vài điều thú vị.
Ba đĩa nhạc khá đình đám trong năm 2011 là Take care của Drake và hai album cùng tên của 2 nghệ sĩ Bon Iver (là tên 1 ban nhạc nhưng chủ yếu xoay quanh nghệ sĩ Justin Vernon) và James Blake có vẻ như khó có điểm gì chung. Cả Drake và Bon Iver đều làm khách mời trong album gần nhất của Kayne West còn James Blake cũng hợp tác với Bon Iver trong bản nhạc Fall Creek Boys Choir nhưng họ lại rất khác biệt về hướng đi trong làng nhạc.


Rapper Canada Drake là một cái tên ăn khách hiện nay trong dòng rap/ hip-hop, xuất hiện trong lễ trao giải Grammy hồi đầu năm 2011, diễn bài What’s my name bên cạnh ca sĩ nóng bỏng Rihanna, người yêu một thời của anh. Gốc rễ của Bon Iver từ dòng indie-folk ở Mỹ còn James Blake nổi lên từ trào lưu dubstep thịnh hành ở Anh quốc. Nhưng dịp cuối năm nghe lại các album để tổng kết khiến người ta bắt gặp điểm chung: các album của họ hướng nội, tìm kiếm sự đồng cảm về tâm hồn trong những không gian rất riêng tư, có vẻ cô độc. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên khi các chàng trai trẻ với tâm hồn nhạy cảm tung ra đĩa. Nhưng điều bất thường ở đây là cách họ thể hiện sự hướng nội của mình.
Sự nhạy cảm thường đi liền với những gì chân thực, có phần thô ráp, hiểu theo ý không có chỉnh sửa, tô vẽ. Có thể họ rải dây trên đàn thùng hoặc tạo những nhịp điệu thật thưa thớt, dành chỗ cho cảm xúc lấp đầy. Ý tưởng là có càng ít càng tốt các “lớp” nằm giữa tâm hồn người nghệ sĩ và cách họ thể hiện tâm hồn đó. Album đầu của Bon Iver, For Emma, Forever Ago, nổi danh về việc được ghi âm trong một chòi gỗ nằm tít trong rừng sâu trong vòng 3 tháng là một ví dụ điển hình. “Mọi rắc rối cá nhân, thất tình, khao khát, yêu đương, mất mát, cảm giác tội lỗi chất chứa trong khoảng thời gian 6 năm trước đó bỗng nhiên “xổ ra” trọn vẹn thành những bài hát” và đĩa nhạc được thực hiện chỉ với vài cái micro và các dụng cụ ghi âm cũ xưa có trong căn chòi gỗ hẻo lánh đó.
Nhưng album mới của Bon Iver có một chiến thuật khác. Anh tạo ra một âm thanh sum suê cho riêng mình, giống như một vườn ươm cho cảm xúc rồi mới đặt phần lời cùng giọng hát lãng đãng của mình vào. Đó cũng là điểm chung mà Drake và James Blake có với Bon Iver. Cả hai đều tại ra thế giới âm thanh rất đặc trưng và riêng biệt của mình với nhiều tầng lớp âm thanh để thể hiện và ấp ủ khuynh hướng hướng nội của mình. Dĩ nhiên, với những hướng đi khác nhau ở các nhánh rẻ của âm nhạc, các album này vẫn rất khác biệt. Drake đưa ra những lời tự vấn đầy mâu thuẫn, khác hẳn với Bon Iver hát về những điều bí ẩn và mơ hồ với tên bài hát gắn liền với một địa danh ví dụ như “Perth”, "Minnesota, WI" … còn James Blake  là những câu hát ngắn về cảm giác lo lắng, hối hận đầy chất thiền.
James Blake làm đầy các bài hát của mình với các khoảng lặng rất ấn tượng. Như ở Limit to your love, đó là những ngắc ngứ, chậm rãi của nhịp điệu, những nốt nhạc lãng đãng như bước lững thững đi dạo trên một con đường vắng. Giọng hát của James Blake đôi khi nhắc nhớ đến Aaron Neville khi xưa, nhất là khi hát lại A case of you của Joni Mitchell. Hẳn bạn vẫn còn nhớ giọng hát rất đặc biệt của Aaron Neville với các bản song ca như "Don't Know Much" và "All My Life" với Linda Ronstadt, những bản nhạc quen thuộc trong các cuộn băng cassette song ca tuyển chọn ở khu thu băng đình đám Sài Gòn khi xưa, đường Lý Chính Thắng. Trong khi đó, nhà sản xuất của Drake là Noah "40" Shebib thì bọc các bản nhạc với một tấm màn mờ ảo và rất đẹp như ở bài Over my dead body chẳng hạn. Đĩa Take care của Drake có lẽ là đĩa nhạc rap/hip-hop sử dụng nhiều piano nhất trong lịch sử.

Khi được mời bước vào các thế giới riêng tư này, chúng ta lại ở vị trí một người quan sát hơn là một khách mời. Trong âm nhạc, điều thú vị là tìm thấy mình trong bài hát vì bài hát mô tả lại một tình huống mà bạn từng trải qua hoặc chia sẻ được cảm xúc vì bạn cảm nhận được cuộc sống của nhân vật trong bài hát như thế nào.
Các thể loại nhạc chân thật, gần gũi, bóc trần cảm xúc và hướng nội rất có uy lực ở khuynh hướng này. Nhưng fan của James Blake và Bon Iver có thể xúc động bởi âm nhạc của họ nhưng có vẻ như 2 nghệ sĩ này vẫn giữ một khoảng cách nhất định: có một sự cô độc, tự vấn bản thân rất rõ rệt, phần lời và cảm xúc thể hiện trong bài hát thường khá trừu tượng khiến người nghe có thể nắm bắt được ở một vài câu nhưng khó đặt mình thật sự vào bài hát. Với thể loại rap/hip-hop, cảm xúc tương tự nhưng Drake có cách thể hiện trực diện hơn và giống như “sư phụ” của mình là Kayne West, Drake thể hiện sự phức tạp trong các tác phẩm của mình thay vì chỉ quanh quẩn các đề tài khoe khoang thường thấy ở nhạc rap.

Một giọng hát khác cũng thể hiện không gian nhạc rất riêng là cô ca sĩ mới toanh người Mỹ, Lana Del Rey. Chưa có một album chính thức nhưng chỉ với bài Video Games, Lana đã nhanh chóng tạo được cơn sốt trên mạng và trở thành nghệ sĩ MTV Push (nghệ sĩ mới triển vọng) trên kênh MTV vào tháng cuối năm 2011. Báo chí ở Anh đã chọn Video games là bản nhạc hay nhất năm 2011, thậm chí, hay nhất của thế kỷ! (theo tờ Independent). Đây là bản nhạc mà Lana cô rất buồn khi nghe lại, thậm chí đôi khi bật khóc khi hát. Mở đầu với tiếng chuông có vẻ gì đó ai oán và rồi được ve vuốt bởi tiếng đàn harp, Video Games là lời của một cô gái khao khát và tin tưởng vào tình yêu trong khi người yêu của cô lại thờ ơ và rất gia trưởng, độc đoán. Giọng hát u buồn đầy cảm xúc, dáng vẻ bên ngoài lại cực kỳ gợi cảm, Lana Del Rey trước đây từng có một đĩa EP dưới nghệ danh là Lizzy Grant nhưng đội ngũ xung quanh cô lại nghĩ rằng Lana Del Rey mới là cái tên phù hợp với phong cách nhạc của cô. Nghe lại những ghi âm đang lan truyền, có khi thấy Lana giống Kate Bush, có khi giống như mô tả của cô về chính mình “giống một Nancy Sinatra nổi loạn”. Lana mang đến một hình ảnh cũ xưa của nước Mỹ, với các cô đào trong poster pin-up, với các clip nhạc được sử dụng hiệu ứng để cố ý gợi lại cảm giác cũ kỹ nhưng âm nhạc của cô khác với việc vực dậy dòng nhạc soul từ các cô gái đến từ nước Anh như  Amy Winehouse, Adele hay Duffy. Trong năm 2012, cô gái 25 tuổi này sẽ có nhiều cơ hội tỏa sáng với phong cách nhạc rất riêng của mình.
Trí Quyền

Thứ Hai, 29 tháng 12, 2014

Leonard Cohen – tình ca tuổi 80

Leonard Cohen – tình ca tuổi 80

Năm 32 tuổi, Mick Jagger từng dại dột tuyên bố “tôi thà chết chứ không muốn đến 45 tuổi mà vẫn hát bài Satisfaction”. Có lẽ anh không nghĩ sự nghiệp âm nhạc của mình có thể kéo dài như vậy. Đến năm 2013, Rolling Stones thực hiện chuyến lưu diễn có tên 50 & counting… (dịch trại ra là 50 năm vẫn chạy tốt) và đương nhiên Satisfaction là ca khúc khó có thể thiếu khi diễn live của nhóm.
Khi Mick Jagger 32 tuổi, anh đã nếm trải những đỉnh cao vinh quang mà một nghệ sĩ thời đó có thể đạt được cùng nhóm Rolling Stones. Nhưng với Leonard Cohen, tới năm 33 tuổi, album nhạc đầu tiên của ông mới được tung ra, đĩa “Songs of Leonard Cohen” năm 1967. Đĩa nhạc cũng không gây được một cú đột phá nào nhưng gợi ra cho Leonard một hướng đi mới, sau con đường viết lách không thành công lắm về tiền bạc. Khởi đầu trễ tràng như vậy nhưng cũng không ai nghĩ rằng sự nghiệp âm nhạc của Leonard có thể kéo dài đến thế. Ngay sau sinh nhật lần thứ 80 một ngày (21/9/2014), Leonard Cohen tung ra album studio thứ 13 của mình có tên là Popular Problems.
Leonard Cohen quen thuộc nhất với người nghe có lẽ là từ “Hallelujah”, ca khúc đã được rất nhiều ca sĩ cover và nổi tiếng nhờ sử dụng trong phim Shrek hoặc trong các cuộc thi hát trên truyền hình. Ngoài ra, có thể còn biết đến ông ở bài I’m your man. Album cùng tên năm 1988 này là lúc Leonard chuyển hướng sang một phong cách hiện đại hơn và là đĩa nhạc phổ biến nhất của nghệ sĩ Canada này.
Hồi xưa mình có cái đĩa nhựa này của Leonard Cohen
Leonard Cohen là một nhà thơ và các album nhạc của ông, nếu bỏ đi phần nhạc, giống như đang đọc thơ. Để quảng bá cho đĩa Popular Problems, những ai đã đăng ký mua trước (pre-order) album này trên iTunes sẽ có được ngay bài Almost Like The Blues. Phần lời của ca khúc này đã được đăng trên tờ The New Yorker dưới dạng một bài thơ!
Giống như một loại rượu được ủ càng lâu càng ngon, giọng hát thấm đẫm sương khói và mùi gỗ sồi của Leonard chỉ có thể quyến rũ hơn, khả năng viết nhạc của ông chỉ có thể xuất sắc hơn theo năm tháng. Một cây viết đã đánh giá album này “Những bài hát đơn giản với phần lời sắc bén”. Bài hát đơn giản đang tràn ngập làng nhạc còn phần lời sắc bén chắc chắn là đặc tính gắn liền với Leonard Cohen. Phần âm nhạc khá đơn giản, rất quen thuộc và gần như trở thành công thức với Leonard Cohen: organ chơi kiểu blues, đàn piano điện với dàn hát bè giọng nữ, giọng hát của Leonard “thều thào” bên trên. Nhưng đĩa nhạc không hề nhàm chán. “Did I ever love you” dễ dàng làm sững lại với nhịp điệu country nhộn nhịp bất chợt giữa bài hát và những giọng nữ lặp lại những câu hỏi mà ông vừa hát ra. Nevermind cũng vậy, nhịp điệu chập chùng trống bass và đan xen một giọng nữ hát tiếng Ả Rập “Salaam” (Hòa bình) để đặt khung cảnh bài hát vào Trung Đông. Nhìn chung, phần nhạc đệm trong đĩa này đầy đặn và dày hơn. Như ở My oh my có thêm dàn kèn chào đón sau mỗi phiên khúc. Đây là một bản tình ca về việc cặp kè cùng một cô gái đẹp, khi mà chở cô tới sân ga thì các gã trai ở đó đều vẫy tay tìm cách gây được sự chú ý của cô!
Đĩa mở đầu với Slow, một bản nhạc “sống chậm” mặc kệ mọi thứ vội vã. Ai muốn nhanh cứ nhanh, vội cứ vội, “tôi thích mọi thứ chậm rãi, chẳng phải vì tôi đã già, chẳng phải vì tôi đã chết (những kẻ hấp hối càng chẳng hề muốn chậm) mà vì tôi thích như vậy. Tôi cũng buộc dây giày nhưng tôi chẳng muốn chạy. Khi nào tới đích thì tôi tới, chẳng cần phát súng chạy đua.” Và ông còn đóng vai chàng Romeo ở độ tuổi 80 với những câu “Let me catch my breath/I thought we had all night” (hãy để anh thở chút, anh nghĩ chúng ta còn cả đêm mà) hoặc I like to take my time/I like to linger as it flies/A weekend on your lips/A lifetime in your eyes (Anh muốn từ từ, kéo dài khi thời gian trôi. Một cuối tuần trên môi, cả đời trong mắt em).
Hầu hết các bài hát trong đĩa đều mới toanh, ngoại trừ bài "Born In Chains" đã được ông biểu diễn trên sân khấu vào năm 2010 và "My Oh My" được thử trong một lần soundcheck cùng năm. Đây là album thứ 2 kể từ khi ông trở lại sân khấu năm 2008. Trước đó, trong vòng 15 năm, ông gần như biến mất khỏi làng nhạc và có một thời gian 5 năm, ông bỏ hết mọi thứ, sống ẩn dật tại thiền viện Núi Trọc ở Los Angeles.  Những tưởng không bao giờ còn được nghe ông hát nữa thì bất ngờ, Leonard xuất hiện và có những buổi diễn dài 3 tiếng rưỡi. Những nhà hát nhỏ bé ở Canada đã không đủ sức chứa lượng fan và dần kéo ông đến các sân vận động trên khắp thế giới, tất cả đều dễ dàng bán sạch vé.
Động lực chính để ông lưu diễn khá “trần tục”: số tiền để dành dưỡng lão của ông bị người quản lý tước đoạt và sau những kiện tụng vẫn không lấy lại được, ông cần một số tiền để có thể nhàn nhã khi về hưu. “Tôi phục hồi được gia tài nhỏ bé của mình sau cỡ một năm nhưng tôi vẫn tiếp tục lưu diễn.” Câu chuyện trở lại sân khấu của ông giống như một câu chuyện nào đó đã từng được chính Leonard viết ra và hát: một người nghệ sĩ già bị ép buộc trở lại sân khấu để tìm lại số tiền mà ông đã từng kiếm được trước đó. Nhưng biểu diễn giúp ông tìm lại nàng thơ của mình và tích cực sáng tác, ghi âm hơn. Mất 8 năm giữa Dear Heather năm 2004 và Old Ideas năm 2012. Chỉ 2 năm sau, Popular Problems ra đời.

Trí Quyền

Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2014

The Endless River – nốt nhạc sau khoảng lặng 20 năm của Pink Floyd

Đã đăng Doanh Nhân Sài Gòn Cuối Tuần
Có nhiều lý giải về sự cuốn hút của Pink Floyd. Với một khoảng lặng dài 20 năm, từ 5 thành viên ban đầu và 4 thành viên ở giai đoạn đỉnh cao, hiện tại chỉ còn lại 2 người nhưng album mới nhất của nhóm, The Endless River vẫn xếp đầu top ở Anh cũng như phá kỷ lục đặt trước (pre-order) trên Amazon tại Anh (qua mặt album Four của nhóm One Direction).
Nhu cầu cho những gì đã mất là rất lớn. Sau khi Jim Morrison qua đời, những băng ghi âm của anh được lục lại, những phần đọc thơ, đoạn thu âm trực tiếp ở sân khấu được sàng lọc. Phần còn lại của nhóm The Doors được mời tới, thảo luận, bàn bạc để đưa ra ý tưởng. Cuối cùng là đĩa An American Prayer, với phần đọc thơ của Jim Morrison và đêm nhạc bởi 3 thành viên của The Doors. Bìa đĩa cũng được ghi An American Prayer – Jim Morrison – Music by the Doors.
Những bản ghi âm cho The Endless River là từ năm 1994, khi tung ra đĩa The Division Bell. Lúc đó, kế hoạch là sẽ tung ra bộ đĩa đôi, một đĩa có lời và một đĩa chỉ có nhạc. Nhưng ý tưởng bị dẹp bỏ, đồng thời với 60-70 ý tưởng đã được ghi âm cũng xếp xó. Sau 20 năm, chỉ còn lại 2 thành viên (keyboardist Rick Wright qua đời năm 2008), những phần ghi âm đó được lựa chọn kỹ lưỡng, xem xét bản nhạc nào có thể phát triển thành một track nhạc hoàn chỉnh, đủ để xuất hiện trong album cuối cùng của nhóm. Tay guitar David Gilmour và tay trống Nick Mason đã đánh nhạc thêm còn phần ghi âm của Rick được xử lý bằng các thủ thuật hiện đại nhất, bù lại cho những ý tưởng trước đây nhưng kỹ thuật âm thanh thời đó không cho phép thực hiện.
Trong 4 thập kỷ qua, Pink Floyd cũng nổi tiếng (hoặc tai tiếng) về việc các thành viên trong nhóm hết sức khó khăn khi dùng lời để trao đổi với nhau. Thi thoảng họ lại phải thông qua luật sư để nói chuyện (!). Thế cho nên ở album cuối cùng, họ không dùng lời nữa mà chỉ các bản nhạc với tựa đề ít nhiều thể hiện những gì mà họ muốn thể hiện "Things Left Unsaid," “Unsung," "It's What We Do," "The Lost Art of Conversation." Track duy nhất có lời là Louder than words thể hiện cũng thể hiện ý đó “Chúng tôi gấu ó, tranh cãi, chê bai lẫn nhau mỗi khi thấy nhau nhưng những gì chúng tôi làm được trong những thời khắc bên nhau, tổng hợp phần đóng góp của mỗi chúng tôi, nhịp đập con tim của chúng tôi là lớn hơn cả những ngôn từ.”
The Endless River khó có thể sánh ngang với các album hoàn chỉnh trước đây của Pink Floyd. Đây là một tập hợp những ghi âm để tưởng nhớ đến một người không còn nữa và ở mức độ xa hơn, mờ nhạt hơn là nhắc đến thủ lĩnh đầu tiên của nhóm Syd Barrett và tay bass Roger Waters. Có lẽ sự tôn trọng đối với người bạn quá cố, đã khiến David Gilmour và Nick Mason không muốn thay đổi quá nhiều những phần ghi âm cũ. Đĩa nhạc mới có đến 12/18 track nhạc được ghi là sáng tác hoặc đồng sáng tác bởi Rick Wright, so với 5 track trong đĩa The Division Bell. Hoàn toàn dựa trên các ghi âm cũ cũng là một lý do album tràn ngập các bản nhạc không lời bởi phát triển bản nhạc theo hướng này dễ hơn viết nên giai điệu và lời khi Rick không còn nữa. Roger Waters hoàn toàn không tham gia vào đĩa nhạc này dù rằng mối quan hệ giữa anh và David đỡ căng thẳng trong những năm gần đây.

Vì được ghi âm cùng thời điểm nên có khá nhiều điểm tương đồng giữa album mới và album gần nhất của Pink Floyd. Cũng giống như The Division Bell là từ được dùng trong bài High Hopes (bản nhạc cuối trong album tưởng chừng là cuối cùng của Pink Floyd), The Endless River cũng là cụm từ trong đoạn cuối của bản nhạc này.
Trong album The Division Bell, giọng nói nhân tạo của nhà khoa học lỗi lạc Stephen Hawking đã được sử dụng trong bài Keep talking và ở đĩa mới, một track nhạc tiếp tục sử dụng giọng nói của ông, bài "Talkin' Hawkin'” Giọng nói trong cả hai bản nhạc này đều từ máy tạo giọng nói cho Stephen trong một đoạn quảng cáo của British Telecom năm 1994.
Anthony Moore, người từng cộng tác viết lời với Pink Floyd trong các bản "Learning to Fly" và "On the Turning Away," cũng được ghi danh trong đĩa mới, nhưng lần này ở một bản nhạc không lời có tên “Calling.” Phần lời của bản nhạc có lời duy nhất trong album, bài Louder than words được viết bởi Polly Samson, vợ của David Gilmour. Trong ấn bản deluxe trên iTunes, The Endless River có thêm 3 track nhạc và 6 MV. Bản Nervada giống như một phần thử đàn của David Gilmour hơn là bản nhạc hoàn chỉnh. Hai bản nhạc còn lại thậm chí không có tên mà được đánh số TBS9 và TBS14.
David Gilmours trả lời phỏng vấn của USA Today: “Đây là những gì tốt nhất mà chúng tôi có thể thu thập và làm được. Tôi không nghĩ sẽ có thêm một đĩa nữa.” Khi được hỏi thêm sẽ có rất nhiều áp lực từ fan muốn được nghe thêm nữa thì David trả lời “Tôi chịu được áp lực đó.” Kế hoạch sắp tới của David là một album solo vào năm 2015 và Nick sẽ chơi trong album này.
Nhưng người nghe vẫn trông đợi từ Pink Floyd và đĩa Animals năm 1977 đang được David và Roger bàn bạc về việc mix lại. Theo Nick, lý do phát hành lại album này là vì “nói về kỹ thuật, đây là một trong những album kém của chúng tôi, về cách thức ghi âm của đĩa nhạc này.”

Trí Quyền

Thứ Năm, 25 tháng 12, 2014

Sô chậu làng nhạc: trong nhà và ngoài ngõ

Sô chậu làng nhạc: trong nhà và ngoài ngõ

Bài dài quá nên chỉ có Doanh Nhân Sài Gòn Cuối Tuần là chịu đăng trọn vẹn
http://www.doanhnhancuoituan.com.vn/2014/10/so-chau-ca-nhac-trong-nha-va-ngoai-ngo/

1. Năm 1964, lần đầu tiên, Olympic được tổ chức tại châu Á và Tokyo vinh dự nhận trọng trách này. Sau 14 kỳ Olympic, một lần nữa, Thế vận hội quay lại Tokyo vào năm 2020 và thủ đô Nhật Bản trở thành phố thứ 5 từng 2 lần tổ chức sự kiện thể thao tiếng tăm này. Địa điểm chính để tổ chức Thế vận hội lần thứ 32 là sân vận động Quốc gia Olympic (Kokuritsu Kyogijō). Ngày 31/5/2014, Kokuritsu chính thức đóng cửa để được phá hủy hoàn toàn và xây dựng mới vào năm sau, sẽ hoàn thành vào năm 2019. Bên cạnh tổ chức các sự kiện thể thao quan trọng, Kokuritsu từng là điểm diễn của các tên tuổi lớn của làng nhạc Nhật nhóm L’Arc En Ciel, Arashi, AKB48 hoặc giọng tenor lừng danh thế giới Luciano Pavarotti.

Vì gắn với nhiều sự kiện lịch sử nên trước khi phá hủy hoàn toàn để xây lại mới, các vật dụng liên quan tới sân cũ như bãi cỏ, ghế ngồi và cả nắp cống đang được bán để làm kỷ niệm! Vừa kiếm được tiền, vừa thỏa mãn được cảm xúc và nhu cầu của người hâm mộ, sao lại không?
Bên cạnh đó, hai đêm diễn lấy tên là Japan Night quy tụ những tên tuổi đang nổi của làng nhạc Nhật được tổ chức vào ngày 28-29/5 để nói lời chia tay với sân. Đêm đầu tiên có chủ đề “Yell For Japan” quy tụ 9 nghệ sĩ/nhóm nhạc đang nổi trong nước Nhật, đêm thứ 2 có tên “Japan to the World” tập hợp 4 nhóm nhạc (Sekai No Owari, Perfume, Man With A Mission, L’Arc-en-Ciel) ít nhiều đã có tiếng tăm trên thế giới và trong khu vực.
L'Arc~en~ciel
Man With A Mission
Âm thanh ánh sáng là điều không còn cần phải bàn với nước Nhật. Nhiều album live của các nhóm nhạc đình đám thế giới được thực hiện thu âm, ghi hình ở Nhật.
Perfume
Màn trình diễn của nhóm Perfume đạt đỉnh cao về sự phối hợp khéo léo giữa công nghệ mapping ảnh và khung cảnh cùng nghệ sĩ thật. Các nghệ sĩ cũng giao lưu cực kỳ khéo léo với người xem và ngược lại, người xem cũng hưởng ứng rất văn minh. Dù không hiểu được ngôn ngữ nhưng có thể cảm nhận được sự ủng hộ của người xem qua các phần tán thưởng, cười ồ của khán giả sau những câu nói của nghệ sĩ.
Thêm nữa, mỗi vé vào cổng được tặng kèm một thanh nhựa phát sáng. Thanh nhựa này sẽ được điều khiển màu sắc từ xa, đồng bộ cho toàn sân vận động. Ắt hẳn ban tổ chức cắt cử một người phụ trách chuyên điều khiển màu, tùy theo trạng thái và dòng nhạc của nghệ sĩ, khi màu xanh, khi màu hồng, khi thì đổi màu liên tục. Có những đoạn giao lưu, nghệ sĩ trên sân khấu đọc màu nào thì toàn bộ thanh nhựa đổi màu theo ý. Cảnh tượng hàng chục ngàn thanh phát sáng trên tay khán giả, cùng màu, cùng đưa theo nhịp ngập tràn trên sân vận động là cảnh tượng rất khó quên.
Giá vé cho mỗi buổi diễn là 8.800 yên (cỡ hơn 1,8 triệu đồng) và mặt sân lẫn khán đài đều kín chỗ trong cả hai đêm diễn với số lượng cỡ hơn 50.000 vé bán ra/đêm. Khác với bất cứ buổi diễn nào mà người viết từng được xem, Japan Night vừa trật tự quy củ, vừa nồng nhiệt hào hứng. Tất cả vé bán ra đều có ghế ngồi nhưng sự đồng lòng và văn minh của người xem ở Nhật khiến cảnh ban tổ chức bắc loa kêu gọi các bạn trước ngồi xuống để các bạn sau xem là không có. Hễ đứng lên cổ vũ là đứng hết! Một ly bia giá 500 yên (100.000 đồng), một hộp mì xào có giá tương tự và phải xếp hàng để mua. Tôi để ý cô gái ngồi phía trước uống xong lon nước cẩn thận bỏ lại vào chiếc túi LV của mình chứ không vất đại dưới chỗ ngồi. Ý thức kỷ luật của người Nhật còn thể hiện ở chỗ khi ban tổ chức thông báo việc trên khán đài, không quay phim, chụp hình khi các nghệ sĩ diễn (cả bằng máy chuyên nghiệp lẫn smartphone), gần như thấy rõ không một vi phạm nào xảy ra, không một chiếc điện thoại nào giơ lên. Nếu có, là từ cánh phóng viên quốc tế được mời đến!

Chính vì nhiều yếu tố (tài chính, sự kỷ luật, tôn trọng bản quyền…), Nhật Bản là điểm dừng chân của vô số người nổi tiếng khi đã qua bên kia đỉnh cao danh vọng. Marty Friedman của Megadeth đã chuyển tới sinh sống ở Tokyo từ năm 2003, dẫn một số chương trình trên truyền hình Nhật.

2. Liên hoan âm nhạc FMFA tại Kuala Lumpur kéo dài trong 3 ngày, với lượng khán giả ước tính là 85.000 kéo dài trong 3 đêm diễn. Giá vé cho một đêm diễn, nếu mua sớm, là 148 ringgit (cỡ gần 1 triệu đồng), mua cận ngày hơn có giá là 248 ringgit ( hơn 1,6 triệu đồng). Nếu mua vé đi được cả 3 đêm diễn sẽ là 428 ringgit (khoảng 2,8 triệu đồng). Danh sách nghệ sĩ biểu diễn tại FMFA sẽ cho thấy giá vé này xứng đáng như thế nào, đặc biệt với các fan của dòng nhạc EDM: deadmau5, Amin Van Buuren và những cái tên phổ thông hơn như Pharrell Williams, Macklemore & Ryan Lewis, Naughty Boy, TinieTempah...
Nhưng bạn không cần phải chết dí ở một sân khấu đợi tới nghệ sĩ mình yêu thích. Có khoảng 4 sân khấu ngoài trời để bạn lựa chọn, chưa kể đến khu VIP Arena và Safari Bar trong lều dành cho các nghệ sĩ ít tên tuổi hơn (cặp đôi DJ Kim Kat có phân nửa là gốc Việt cũng có diễn tại đây) và vô số hàng quán, bán từ nước uống, thức ăn cho tới đồ lưu niệm, quần áo.



ZoukOut ở bãi Siloso - Sentosa (Singapore) cũng có 2 sân khấu lớn để chọn. Những cái tên hấp dẫn ở ZoukOut 2013 là Afrojack, Zedd, Martin Solveig nhưng khi có mặt tại đây, bạn có thể cảm nhận rằng nghệ sĩ biểu diễn chưa phải là sức hút lớn nhất đối với khán giả dù giá vé ZoukOut là 118 -128 đôla Singapore. Đi bộ từ cổng vào đến bãi cát có dựng sân khấu là một đoạn đường xa nhưng đầy các bạn trẻ tụ tập bên lề đường, hưởng thụ không khí party và thưởng thức “chất cồn” một cách thoải mái hơn thường lệ. Đến 12 giờ khuya, dòng người đi vào bãi Siloso vẫn còn ùn ùn. Đôi khi, các cuộc vui đi quá đà và gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng. Tại đêm thứ 2 của FMFA 2014, có 6 người đã chết với lý được cho là sử dụng thuốc kích thích quá liều. Và đến 5 giờ chiều trước đêm thứ 3, thông báo hủy diễn chính thức được đưa ra, tiền vé được hoàn lại. Các nghệ sĩ như Martin Garrix hay Bassjackers đã khoe hình trên Twitter trên đường đến điểm diễn chỉ để đến nơi được thông báo là đã hủy.

3. Diễn nhạc ở nước ngoài có miễn phí không? Dĩ nhiên là có. World Stage là chuỗi chương trình của kênh MTV, ghi hình các buổi diễn độc quyền, các liên hoan âm nhạc nổi tiếng, mang lại cảm giác như đang ngồi ở hàng ghế đầu để thưởng thức những tên tuổi đình đám, từ Nirvana, Red Hot Chilli Peppers cho tới Beyonce, Green Day, Muse… Thành công của chuỗi chương trình khiến MTV châu Á nghĩ ra một hướng đi khác. 


Thay vì phải mang vác máy móc, thiết bị đến Rock Am Ring chẳng hạn để ghi hình, MTV châu Á đã đứng ra tổ chức hẳn buổi diễn World Stage riêng của mình từ năm 2009. Diễn ra hàng năm tại Kuala Lumpur (Malaysia), World Stage không hề kém cạnh về danh sách nghệ sĩ biểu diễn. Thị trường châu Á đang là một lối thoát mới cho ngành công nghiệp âm nhạc nên Katy Perry, Justin Bieber, Robin Thicke, Thirty Seconds To Mars, Kasabian đều đã khăn gói đến resort Sunway Lagoon để tham dự World Stage, chưa kể đến các nhóm nhạc trong khu vực như Wonder Girls, Beast, Exo, Kara… Mỗi buổi diễn đều là cơ hội để Malaysia giới thiệu nghệ sĩ của mình với thế giới như Bunkface, Mizz Nina, Pop Shuvit, Joe Flizzow, Yuna… Tuy nhiên, cố gắng này chỉ là phụ vì phần lớn người xem đến World Stage không phải để xem nhạc Malaysia. 
Joe Flizzow
Vé tham dự World Stage không được bán mà chỉ được tặng khi tham dự các trò chơi, cuộc thi do MTV châu Á tổ chức trong vòng 1 tháng trước đêm diễn. Được tổ chức tại Sunway Lagoon resort, điểm diễn là biển nhân tạo của khu resort được rút hết nước để làm sân khấu, khu vực VIP là chòi và bãi cát còn khán giả thường đứng hẳn trong “sàn biển”. Quy mô cỡ 15.00-18.000 người/ buổi diễn, World Stage Live in Malaysia là cơ hội “miễn phí” hiếm hoi để xem các nghệ sĩ hàng đầu thế giới biểu diễn. Nhưng kèm theo việc miễn phí là vô số chi phí khác như chi phi ăn, mua sắm trong vài ngày ở tại Sunway. World Stage không phải là chương trình miễn phí đầu tiên mà MTV tổ chức. Isle of MTV ở Malta là một buổi diễn ngoài trời miễn phí được phối hợp tổ chức với các bộ phận du lịch và hàng không của đảo quốc này.
4. Những show diễn đình đám tại Việt Nam trong các năm trước thường là miễn phí, dưới sự tài trợ của các nhãn hàng, từ bia, điện thoại di động cho đến dịch vụ mạng điện thoại. Nhất là với nhạc rock, khi chưa có được tiếng tăm như hiện nay thì hoàn toàn phụ thuộc vào tài trợ. Lại có câu chuyện giữa con gà và cái trứng khi không có tài trợ thì âm thanh không hay, âm thanh không hay thì fan chê và lần sau không mua vé đi xem nữa, “thà coi miễn phí mà hay”! Tình huống trớ trêu này đưa các đêm diễn tự tổ chức gặp nhiều khó khăn về mặt tổ chức (giấy phép, âm thanh, ánh sáng) và việc bù đắp lại bằng vé gần như là không thể. Khi được xem My Chemical Romance miễn phí, mấy ai lại bỏ tiền mua vé xem The Ghost Inside. Nếu không sâu sát với giới expat hay cộng đồng rock underground, mấy ai biết The Cribs, Black Rebel Motorcycle Club cho tới Obey The Brave, Rotten Sound đều đã diễn tại Việt Nam.

Dù vẫn có nhiều bên đầy nhiệt huyết để mời các tên tuổi đến diễn nhưng kinh nghiệm của những lần tổ chức trước đã làm chùn bước, nản lòng không ít. Children of Bodom, Hammerfall đều đã được thương thuyết và ra giá cho việc diễn tại Việt Nam, chỉ còn việc ai dám bỏ tiền ra đầu tư để thử thời vận một lần, khi mà thói quen bỏ tiền mua vé đi xem nhạc đã bị thui chột rất nhiều. Để chi phí mời được giảm xuống tối thiểu, cần phải canh lịch biểu diễn của các nhóm nhạc, nếu họ có đi tour ở châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á thì chi phí sẽ giảm đi khá nhiều, chỉ có điều bạn sẽ không chủ động được ngày diễn và có thể rơi vào ngày giữa tuần. Hai nhóm nhạc nhạc đến bên trên có giá chỉ trên dưới 10.000 đôla/đêm diễn nếu qua Việt Nam, nhưng liệu có đủ 1000 rock fan sẵn sàng bỏ 200.000 đồng để mua vé đi xem? Cộng đồng nhạc dance xem ra khả quan (và giàu có) hơn với sự xuất hiện của Hardwell, Afrojack, Steve Aoki, Far East Movement, Ministry of Sound…
Chỉ với mục đích mang lại âm nhạc cho người nghe trong nước đã khó khăn huống hồ các show diễn ở Việt Nam vẫn còn chật vật nhắm tới hơn là khả năng kích cầu du lịch, vốn quá xa vời trong khi thật ra, mỗi buổi diễn lớn là một cơ hội kích cầu du lịch cực tốt. Khi đáp xuống sân bay giá rẻ LCCT để tham dự FMFA 2014, người viết rất bất ngờ với hàng người rồng rắn trước cổng hải quan, dù rằng hải quan Malaysia xử lý công việc khá nhanh. Mất khoảng 45 phút – 1 tiếng cho việc xếp hàng và cỡ 3 phút cho việc đóng dấu nhập cảnh. Trong dãy rồng rắn đó là vô số Tây balô mà chỉ cần vài câu trò chuyện là biết ngay mục đích của họ đến Malaysia lần này là vì Armin Van Buuren. Ngay tại FMFA cũng bắt gặp được nhiều nhóm yêu thích nhạc trance đến từ Nhật (mặc đồng phục là yukata, loại kimono mùa hè), từ Úc và cả Việt Nam.
Ngay cả người mê nhạc Việt cũng không ít lần rủ nhau qua Singapore xem Muse hoặc qua Thái xem Taylor Swift. Nhưng có mấy ai mua vé máy bay về Việt Nam để xem Bob Dylan?
Trí Quyền


Thứ Hai, 21 tháng 7, 2014

Adele: sức hút hoàn toàn từ âm nhạc

Đầu tháng 4/2011, album 21 của Adele đã lập kỷ lục mới khi 10 tuần lễ liền xếp ở vị trí hạng nhất top ở Anh, khoảng thời gian lâu nhất mà một nghệ sĩ solo nữ đạt được trong lịch sử làng nhạc Anh. 21 giữ vị trí quán quân lâu hơn album tổng hợp The Immaculate Collection của Madonna (tung ra cách đây 21 năm) 1 tuần và rất có thể còn qua mặt thêm nhiều tuần lễ nữa. Đáng nể nữa là album đầu tay của cô phát hành năm 2008, đĩa 19 cũng quay trở lại bảng xếp hạng, đang nằm ở vị trí hạng 2. Trong vòng 6 tuần lễ gần đây, Adele chiếm giữ 2 vị trí hạng đầu 4 tuần!
Thành công phá kỷ lục của Adele liệu sẽ có ảnh hưởng thế nào đối với ngành kinh doanh âm nhạc vốn được xem như có xu hướng bắt chước mù quáng? Bất cứ khi nào có một nghệ sĩ có được thành công đột phá, các hãng đĩa lớn sẽ tát nước theo mưa, xông vào tìm kiếm và ký hợp đồng với những nghệ sĩ na ná như vậy. Nếu không tìm được, họ sẽ tạo ra theo kiểu sản xuất hàng loạt một phỏng khuôn mẫu đã thành công trong khi các “con gà” đang dưới trướng họ cũng sẽ được chỉnh sửa lại theo hướng này.
Hình mẫu của một nữ ca sĩ dòng pop trong vài năm qua, không thể chối cãi, là Lady Gaga. Thậm chí các ngôi sao đã thành danh cũng điều chỉnh lại cách ăn mặc cho phù hợp với thời đại Gaga. Không cần ở trời Tây – Anh – Mỹ, hỏi 10 người ở các đô thị Việt Nam có lẽ hết 9 người biết đến cái tên Lady Gaga. Thời trang (không hiểu theo nghĩa gói gọn ở quần áo) của nhạc pop càng lúc càng trở nên bạo liệt, các diva tương lai thử các bộ cánh kỳ quái, phần hát sử dụng đậm đặc phần mềm Autotune, video clip tràn ngập các hình ảnh chỉ có trong trí tưởng tượng, cả theo hướng thần thoại lẫn xác thịt.
Và rồi Adele đến, không xài Autotune, không vũ đạo tưng bừng, nhuần nhuyễn, thuần thục, không gây tranh cãi phải ra tòa, không khoe da thịt trên tạp chí. Chiêu thức duy nhất mà cô sử dụng là hát với trái tim và tâm hồn của mình. Nhìn Adele trên sân khấu, có thể nghĩ cô chỉ chui mình vào một chiếc váy xinh xắn và dặm thêm chút son môi rồi bước ra trước ánh đèn follow.
Và nhiều cái “không” đó đã lật đổ kỷ lục xếp đầu bảng xếp hạng Anh quốc mà Madonna lập ra từ năm 1990, chứng tỏ người tiêu dùng trong phút chốc nào đó, trở lại thích những điều giản dị. Album thông thường (đĩa của Madonna là một album tuyển chọn những bài hát thành công nhất) gần đây nhất giữ vị trí hạng đầu trong 10 tuần là đĩa Brothers in Arms của Dire Straits mãi từ năm 1986.
Cách đây mấy năm, như chính Adele tâm sự, cô được các hãng đĩa ký hợp đồng trong cơn cuồng Lily Allen, lùng sục các trang Myspace để tìm một kiểu nữ ca sĩ tương tự. Mới có 3 bản demo trên Myspace và đang loay hoay tìm kiếm phong cách riêng, Adele đã được hãng đĩa XL ký hợp đồng. Và rồi Amy Winehouse thắng lớn, các hãng đĩa chuyển hướng, tiếp thị Adele và Duffy thành những ca sĩ nhạc soul đầy hoài cổ. Mặc cho các hướng lèo lái đó, Adele tiếp tục làm những gì mà cô muốn như viết các bản nhạc đầy cảm xúc riêng tư, ghi âm các bản nhạc đó mặc kệ các xu hướng nhạc đương thời và hát những bản nhạc đó hết sức mình. Cô trái hẳn với hình ảnh một ngôi sao nhạc pop, là cô gái, dù không hề cố gắng, vẫn đánh bại được Lady Gaga. Không chỉ ở quê nhà Anh quốc, ở thị trường Mỹ, album 21 cũng xếp nhất top Billboard trong tuần đầu tung ra và giữ vị trí hạng nhất 3 tuần lễ. Nhạc của Adele được nghe ở khắp nơi, từ các club nhộn nhịp sôi động với các bản mix cho nhạc dance cho đến các nhà hàng lịch sự trang trọng với những bữa tối lãng mạn dành cho hai người.
Biểu diễn đĩa đơn thứ nhì từ album, bài Someone Like You, tại Brit Award hồi tháng 2 chỉ với phần đệm của đàn dương cầm, Adele đã không sử dụng hiệu ứng âm thanh ánh sáng đặc biệt gì trên sân khấu ngoài những giọt nước mắt của chính mình. Cô đã bật khóc khi hát lại bản nhạc mà mình sáng tác về một người bạn trai cũ. Trong vòng 1 tiếng sau khi cô trình diễn, ca khúc Someone Like You đã leo lên hạng nhất bảng xếp hạng các bài hát được download nhiều nhất.
Adele đang là một hiện tượng của làng nhạc và điều đáng nói là sức hút của cô hoàn toàn nằm ở âm nhạc. Cô tốt nghiệp trường Brit (trường kỹ thuật và nghệ thuật trình diễn ở London), một trường học hoạt động một phần từ quỹ Brit Awards, từ là được đóng góp từ chính ngành công nghiệp âm nhạc. Nhiều nghệ sĩ trẻ đã được đào tạo ở đây như Katie Melua, Amy Winehouse, Leona Lewis, Kate Nash và 2 ngôi sao mới  Katie B và Jessie J. “Tôi ghét phải nghĩ đến việc tôi sẽ ở đâu nếu như tôi không theo học ở Brit School.” Adele thú nhận cô không nhận ra nền tảng giáo dục quan trọng như thế nào cho đến khi cô 14 tuổi. “Sẽ có nhiều cảm hứng và động lực hơn khi ở cạnh 700 cô bé muốn mình trở thành một điều gì đó hơn là bên cạnh 700 cô bé chỉ muốn có thai để mà được ở căn hộ riêng.” Nhưng lời khuyên của cô về việc hát thì đơn giản hơn nhiều “Bạn có thể tự học hát. Tôi lắng nghe Etta James để có thêm tâm hồn và xúc cảm, nghe Ella Fitzgerald để luyện thang âm sắc và nghe Roberta Flack để học cách kiểm soát giọng hát.” Ca hát, với Adele là một niềm vui “Tôi cảm thấy thoải mái khi hát, dù tôi đang tắm, đang nấu ăn hay đang trên sân khấu. Tôi có thể hát mãi.”
Bên cạnh hát, Adele có thể chơi guitar, bass và piano “nhưng không giỏi lắm,” như cô tự thú nhận. Cô tự viết các bài hát và tự ghi âm các bản demo, thậm chí biết các kỹ thuật thu âm về micro, amply và các hệ thống âm thanh, những kỹ năng mà cô có được ở Brit School. “Tiện lắm, bởi vì bạn không phải trả tiền thuê người khác làm.” Bài hát đầu tiên mà Adele sáng tác là  Hometown Glory, được cô viết năm 16 tuổi. Hãng đĩa XL, nơi có dưới trướng Dizzee Rascal, M.I.A., The White Stripes và The Prodigy, đã nghe được bài hát này trên trang Myspace của Adele lúc cô vẫn còn đi học và ký hợp đồng với cô năm 2006. Nhưng trước đó, cô phải trình diễn thử ở một hộp đêm ở Brixton để chứng tỏ các bản demo trên mạng thật sự là do cô hát. Ký xong hợp đồng với XL, Adele bị “tắc tị”, không viết được ca khúc nào trong 10 tháng trời. Thế rồi gã bạn trai đã dối gạt cô và Adele nói lời chia tay bằng phương thức hết sức hiện đại mà nhiều bạn trẻ, trong đó có các ca sĩ sử dụng: bằng tin nhắn điện thoại (Joe Jonas cũng chia tay Taylor Swift bằng cách này). “Lúc đó tôi thật là tội nghiệp nhưng giờ đây thì tôi rất hài lòng về lần chia tay đó, tôi có được cả một album từ sự kiện này.” Phát hành album 19 xong, Adele lại tiếp tục khủng hoảng sáng tác. “Tôi không biết album thứ 2 của tôi sẽ viết về điều gì: phòng khách sạn hay những chặng bay đường dài chăng? Những thứ đó chẳng liên quan gì đến ai cả.” Và rồi cô lại yêu. “Thật may mắn tôi đã gặp được anh ấy. Và cũng thật may mắn, chúng tôi đã chia tay!”
Qua cách trò chuyện sinh động và vui nhộn này có thể nhận thấy Adele không hề u uất như bài hát của cô. “Tôi trái ngược với các danh hài vui nhộn trên sân khấu và buồn thảm khi tấm màn nhung kéo lại. Trên đĩa nhạc, tôi có vẻ u buồn, tăm tối nhưng ngoài đời thật tôi rất vô tư lự, thảnh thơi. Nhưng khi tôi hạnh phúc, tôi không viết nhạc được vì tôi bận rộn cười đùa, bận rộn yêu. Nếu như tôi kết hôn, chắc tôi phải nói “Anh yêu, em cần phải ly dị, đã 3 năm rồi, em cần phải sáng tác một album!”
Có không ích rắc rối với cô gái trẻ vô tư và sống theo cảm xúc này. Năm 2008, cô từng hủy một chuyến lưu diễn đến Mỹ để được ở bên cạnh người bạn trai (giờ đã trở thành bạn trai cũ). Trong một bài phỏng vấn trên tạp chí Nylon, cô nói “Tôi uống quá nhiều và rượu dường như là điều cơ bản trong mối quan hệ của tôi với gã trai đó. Tôi không thể nào không có anh ấy nên tôi nghĩ “Thôi được, tôi sẽ hủy các công chuyện của mình… Tới giờ nghĩ lại, tôi vẫn không tin mình đã làm thế. Thật vô ơn đối với các fan của mình”

19 được ghi âm khi Adele 19 tuổi, có cover bài Make you feel my love của Bod Dylan theo lời khuyên của ông bầu Jonathan Dickins. 21, dĩ nhiên được ghi âm khi cô 21 tuổi và trong album này, toàn bộ các ca khúc, ngoại trừ bài Lovesong, đều có phần tham gia sáng tác của Adele.











Trí Quyền

Những đĩa nhạc của năm 2010

Dòng indie là dòng nhạc thường được các nhà phê bình lựa chọn trong danh sách đĩa hay nhất cuối năm bởi các nghệ sĩ này thoải mái trong sáng tạo nghệ thuật, không bị gò bó bởi khuông khổ thương mại. Nhưng năm rồi, dòng indie có những chiến thắng khá oanh liệt trên bảng xếp hạng như Contra của Vampire Weekend và The suburbs của Arcade Fire đều xếp nhất Top album ở Mỹ.
My Beautiful Dark Twisted Fantasy - Kanye West

Đĩa nhạc này nhận được sự đồng thuận từ giới phê bình lẫn số đông công chúng. Kanye luôn tạo được hào quang cho mình, lôi kéo được sự chú ý của ánh đèn spotlight nhưng bên cạnh đó, anh thật sự là một tài năng lớn và điều đó được chứng tỏ qua album này. 
Album leo lên hạng nhất trong tuần đầu phát hành và là album thứ 4 liên tiếp của Kanye xếp đầu top. Ở các bảng xếp hạng khác như Canada, Anh, Úc, đĩa cũng tương đối thành công nhưng rực rỡ nhất của đĩa này là trên các trang báo. Hầu hết các cột báo bình luận âm nhạc đều ngợi khen My Beautiful Dark Twisted Fantasy và album xuất hiện ở vị trí hạng nhất trong nhiều lựa chọn của các cây viết âm nhạc danh tiếng cho danh sách đĩa nhạc xuất sắc năm 2010.
Nhiều nghệ sĩ đã tham gia vào album này và Kayne được ca ngợi là “giống như Miles Davis, anh đã vắt được chất, được cá tính âm nhạc của những người cộng tác và làm nổi bật được âm nhạc mà anh tạo ra.” Sự có mặt của Jay-Z, Rick Ross, Kid Cudi hay Nicki Minaj thì không có gì ngạc nhiên nhưng với phần đóng góp của Bon Iver, nhóm indie folk tạo được tên tuổi cách đây vài năm với đĩa For Emma, Forever Ago cho thấy Kayne rộng mở với đĩa nhạc này như thế nào. Danh sách nghệ sĩ tham gia ghi âm đĩa này cực kỳ đa dạng, bên cạnh Rihanna, Fergie, John Legend còn có cả Elton John, Elly Jackson (nhóm nhạc dance La Roux), Seal…
Kéo dài đến gần 70 phút nhưng My Beautiful Dark Twisted Fantasy không hề mang lại chút cảm giác nhàm chán nào. Không cần phải là fan của Kanye West hay của dòng hip-hop mới cần có album này trên kệ đĩa.
The ArchAndroid - Janelle Monae

Janelle Monae nhận được đề cử Grammy cho album R&B đương đại xuất sắc nhất nhưng album này xứng đáng được tưởng thưởng hơn thế. Sự đa dạng trong đĩa nhạc này có thể sánh ngang với album mới của Kayne West.
Album nằm trong chuỗi album mà Janelle thai nghén từ khi mới bước vào làng nhạc, dựa trên một câu chuyện trong tương lai về thế giới người máy, về những cấm đoán về tình yêu giữa người và… máy. Đĩa nhạc có hẳn những overture cho tổ khúc đầy không khí kinh viện, thính phòng nhưng ngay kế đó là những bản nhạc nhộn nhịp hiện đại. Rất khó nếu muốn dán nhãn dòng nhạc nào đó cho đĩa này. 70 phút nhạc trong đĩa với những khúc quanh bất ngờ về thể loại, cùng với ý tưởng về album concept, hình ảnh ở thế giới tương lai cho thấy đĩa nhạc khá gần với các album dòng progressive rock phức tạp trước đây, chỉ có điều âm nhạc chủ yếu trong đĩa lại là R&B và funk. Nhưng ngay chính trong các bản nhạc R&B đó thi thoảng lại có những câu guitar ngút ngàn (bài Locked inside chẳng hạn). Bên cạnh đó là nhiều bài với giai điệu và hòa âm gợi nhớ những bản nhạc cũ xưa như nhạc phim James Bond 007. Điều xứng đáng khen ngợi nhất là Janelle chỉ mới 25 tuổi!
Teen Dream – Beach House

Đừng để ác cảm với chữ “teen” đánh lừa bạn, đây là một đĩa nhạc nhẹ nhàng từ nhóm dream pop Beach House. Nhóm chỉ gồm 2 thành viên trong đó tay keyboard nữ là cháu của nhà soạn nhạc phim lừng danh người Pháp Michel Legrand.
Dream pop từ các nhóm như Mazzy Star, Love Spirals Downwards và gần đây là the xx thể hiện một không khí nhạc lãng đãng, mơ màng, có khi trong trẻo, có khi u ám và đĩa nhạc này cũng không ngoài trạng thái đó. Bài “Zebra” hay “Silver Soul” mang lại những cảm giác hoài niệm các nhóm nhạc xưa cũ như Zombies hay Beatles. Sự nhất trí ngợi khen của giới truyền thông với album Teen Dream đã mang lại cho nhóm một lượng khán giả rộng mở kha khá và đôi khi, bắt gặp cả vợ chồng Beyonce và Jay-Z tại buổi diễn của Beach House.
Sir Lucious Left Foot: The Son of Chico Dusty – Big Boi

Big Boi là thành viên của nhóm Outkast, một trong những nhóm hip-hop thành công nhất từ trước đến giờ với 6 giải Grammy và 25 triệu album được tiêu thụ. Outkast gồm 2 thành viên: Big Boi và Andre 3000 và năm 2003, nhóm tung ra Speakerboxxx/The Love Below, bộ đĩa đôi gồm 2 đĩa solo của mỗi thành viên. Một cách ra đĩa khá kỳ lạ nhưng sự kết nối và sáng tạo của 2 đĩa nhạc này đã mang lại cho album giải Grammy Album của năm, lần thứ nhì một đĩa hip-hop có được giải thưởng danh giá này.
Sau đĩa Idlewild năm 2006, với sự đón nhận tương đối hờ hững từ người nghe, Outkast quyết định tạm dừng để mỗi thành viên theo đuổi sự nghiệp solo thật sự. Album “Sir Lucious Left Foot” được thai nghén từ giai đoạn này và bắt đầu ghi âm từ năm 2007. Sau nhiều lần thay đổi hãng đĩa, thay đổi ngày phát hành vì những bài hát bị lọt ra ngoài, album chính thức tung ra sau 3 năm thực hiện vào ngày 5/7/2010.
Đĩa nhạc đậm chất hip-hop miền Nam, với tiếng bass đậm và dày. Big Boi thường được nhận xét là không đa dạng bằng Andre 3000 mà thuần chất hơn. Nhưng đĩa nhạc cũng cho thấy Big Boi có thể biểu diễn và sáng tác nhiều thể loại phong phú. Ở bài “General Patton” có sử dụng đoạn hợp xướng "Vieni, o guerriero vindice” trong vở Aida của Verdi được trình bày bởi dàn nhạc giao hưởng nhà hát Rome và tên bài hát là kiểu chơi chữ giữa tướng Mỹ thời thế chiến thứ 2 George Patton với tên thật của Big Boi cũng là Patton.
The Suburbs – Arcade Fire

Arcade Fire đã có trong tay 2 album rất xuất sắc là Funeral và Neon Bible. Cả hai đĩa đều được đề cử giải Grammy Album alternative của năm, lần lượt vào năm 2005 và 2008. Năm 2010, nhóm lại tiếp tục tung ra một tác phẩm được chào đón và ngợi khen, đĩa The Suburbs. Bên cạnh đề cử quen thuộc album alternative của năm, The Suburbs còn nhận được một trong những đề cử quan trọng nhất, giải Album của năm. The Suburbs được so sánh với album đình đám của Radiohead là OK Computer và có mặt trong danh sách top 10 của gần như mọi tạp chí, từ chuyên về âm nhạc như Rolling Stone, Q, Billboard cho đến cả tạp chí Time. Trưởng nhóm Arcade Fire, Win Butler mô tả đĩa nhạc là sự hòa trộn giữa Depeche Mode và Neil Young.
5 đĩa nhạc không nên bỏ qua
Sky at night - I Am Kloot
Bài đáng chú ý: To the brink, Northern skies, I still do
One Night Stand – Hot Chip
Bài đáng chú ý: Thieves in the night, Take it in, Hand me down your love
Cosmogramma - Flying Lotus
Bài đáng chú ý: ...And the World Laughs with You
Broken Bells – Broken Bells
Bài đáng chú ý: The Mall & Misery, Mongrel heart
Halcyon Digest - Deerhunter
Bài đáng chú ý: Memory boy, Basement scene
Trí Quyền

Những khúc ca hè bất tử

Bên cạnh những ca khúc “ve sầu”, nóng sốt chỉ trong mỗi một mùa hè rồi lột xác khỏi tâm trí người nghe ở mùa hè sau, vẫn có những ca khúc bất hủ như cây cổ thụ, mỗi hè lại đâm chồi, nảy lộc, ra hoa mới, vẫn được đón nhận và nhớ tới mỗi khi hè về…

Margaritaville của Jimmy Buffett có bối cảnh ở Mexico, nơi có mùa hè bất tận, nơi người Mỹ nhấm nháp ly rượu margarita dưới ánh nắng. Ca khúc pha trộn giữa các thể loại nhạc Caribbean/Mariachi/Country tạo nên phong cách đặc trưng của Jimmy Buffett, người sau 30 năm chinh phục người nghe mới có được album đầu tiên xếp hạng nhất Top Billboard (album License to Chill) vào cuối tháng 7/2004 vừa qua.

Mùa hè gắn liền với bãi biển và ánh nắng chói chang, đặc biệt hấp dẫn người Mỹ với trò lướt ván. Nhóm Beach Boys chính là đại diện nổi bật cho dòng nhạc lướt ván này với rất nhiều ca khúc tươi vui có từ “surf”. Surfin’ safari là bài hit đầu tiên của nhóm vào năm 1962, ca ngợi California, nơi có những chàng trai thức dậy sớm và ca hát vang trời cùng những cô gái đẹp ra bãi biển để lướt ván. 26 năm sau đó, Beach Boys lại có bài hát xếp hạng nhất, gắn liền với ngày hè, đó là bản Kokomo (1988).

Ca khúc Under the Boardwalk (1964) của nhóm Drifters có ý trốn chạy cái nắng thiêu đốt của mặt trời mùa hè, tìm được bóng râm mát mẻ bên dưới hàng hiên. Thật trùng hợp, hoàn cảnh ghi âm của ca khúc này có ý nghĩa tương tự. Ca sĩ chính của nhóm là Rudy Lewis qua đời vì dùng thuốc quá liều ngay đêm trước ngày thu âm ca khúc, không còn kịp để hoãn vì rất khó khăn mới đăng ký trước được phòng thu. Phần hát được chuyển qua cho Johnny Moore, nhà sản xuất Bert Berns khéo léo chuyển cảm xúc của Moore từ cú sốc và đau buồn do cái chết của đồng đội thành sự thư giãn, trút bỏ gánh nặng giống như tránh khỏi ánh nắng nóng bức kia trong lời hát. Ca khúc trở thành đỉnh cao trong sự nghiệp ca hát của Moore. Ba năm sau đó, cũng chính Berns đã thực hiện bản Brown - eyed girl cho Van Morrison. Vẻ u sầu ảm đạm thường trực của Morrison đã được thay thế bằng nụ cười tươi tắn trong ca khúc này, có thể cảm thấy anh đã mỉm cười khi nhớ về những kỷ niệm ngọt ngào về một tình yêu tìm thấy trong mùa hè.

Năm 1964, tiếng saxo Stan Getz quyện cùng giọng hát đầy nữ tính của Astrud Gilberto tạo nên bản nhạc nổi nhất của điệu bossa nova, điệu nhạc lắc lư đầy gió nhiệt đới của Brazil. Sáng tác bởi Antonio Carlos Jobim và tay guitar kiêm ca sĩ jazz bậc thầy Joao Gilberto, Girl from Ipanema thể hiện không khí thong thả, không vướng bận của mùa hè thảnh thơi. Lúc đó, Stan Getz đang ghi âm với Joao Gilberto và họ dự định có thêm một ca khúc bằng tiếng Anh bên hàng loạt bài hát bằng tiếng Latin.

Còn nhiều bản thật thích hợp trong hè như Hot fun in the summertime (1969) của Sly and the Family Stone, Summer in the city (1966) của Lovin’ Spoonful, Summertime blues (1958) của Eddie Cochran. Gần hơn có điệu reggae trong "I can see clearly now" (1972) của Johnny Nash, bản nhạc nghe khi lái xe đi nghỉ hè Born to run (1975) của Bruce Springsteen. Hay mới nhất là No shirt no shoes (no problems) (2002) của Kenny Chesney với mùa hè thật sự trút bỏ mọi gánh nặng “No boss, no clock, no stress, no dress code”( không sếp, không phải canh giờ giấc, không áp lực, không phải ăn mặc chỉnh tề).
Trí Quyền