Thứ Hai, 28 tháng 9, 2015

Jazz đang già?

Katie Melua
Đăng SVVN cách đây 6 năm, mùa thu 2009
Mới hồi đầu Thu này, một nghiên cứu được đưa ra bởi The National Endowment for the Arts - một tổ chức hỗ trợ các hoạt động nghệ thuật ở Mỹ - cho thấy, một số loại hình nghệ thuật hơi "khó nhằn" với người trẻ như nhạc cổ điển, ballet, jazz đang xuất hiện những dấu hiệu rất đáng lo ngại, đặc biệt đối với nhạc jazz.
Báo cáo "đau đớn"
Trong bảng thống kê độ tuổi trung bình của công chúng tham gia các sự kiện văn hóa, biến thiên lớn nhất thuộc về công chúng nhạc jazz. Năm 1982, người đi xem một buổi diễn nhạc jazz có độ tuổi trung bình là 29. Sau đó 10 năm, độ tuổi này là 37. Đến năm 2008, con số đã vọt lên đến 46. Chỉ trong vòng 25 năm, độ tuổi trung bình của người thưởng thức nhạc jazz đã tăng đến 17 tuổi. Các môn nghệ thuật khác, độ tuổi thưởng thức cũng tăng, như opera tăng từ 43 lên 48 tuổi, nhạc kịch (musical) tăng từ 39 lên 45… Thế nhưng dấu hiệu già cỗi quá mức của fan nhạc jazz khiến người yêu thích thể loại này không khỏi lo lắng và chạnh lòng. Theo bảng nghiên cứu "đau lòng" này, fan của jazz vẫn tiếp tục theo đuổi đam mê, nhưng các bạn tuổi teen và giới trẻ độ tuổi U30 thì không còn bao nhiêu hứng thú với jazz nữa.
Giọng hát yêu thích mọi thời đại của mình: Nina Simone
Ở bảng thống kê kế tiếp, chỉ ra số phần trăm lượng người trẻ từ 18 đến 24 tuổi tham dự các sự kiện văn hóa. Chỉ duy nhất "món" viện bảo tàng là tăng, các loại hình nghệ thuật khác đều giảm và một lần nữa, jazz lại tuột dốc thê thảm: 58%. Trong vòng 25 năm qua, các bạn trẻ tin rằng tham quan viện bảo tàng là quá đủ nâng tầm văn hóa. Mà đã "nâng" đủ rồi, thì mất thời gian vào mấy thứ nặng nề và "buồn ngủ" như ballet, nhạc kịch hay jazz để làm gì chứ!
Ai cũng biết, Mỹ là nơi xuất phát của jazz. Nhiều thập kỷ, ở các đại học nghệ thuật, jazz trở thành một môn học được nghiên cứu cẩn thận. Thế nhưng, có một điều lạ, khi jazz chưa được đưa vào các chương trình học ở trung học hay đại học, loại nhạc này lại được sinh viên yêu thích nhiều hơn hiện nay, khi hầu hết các bậc học lên cao đều tự hào có "bộ môn jazz"!
Nếu muốn tìm một điểm lạc quan nhất trong báo cáo số lượng khán thính giả dành cho jazz, thì có lẽ chỉ còn mục online. Tuy nhiên, thế giới mạng không phải là nơi lý tưởng để jazz phát triển khi mà thái độ của bên kinh doanh âm nhạc xem web là kẻ thù chứ không phải đồng minh. Hiện tại, ngành công nghiệp âm nhạc dùng mọi thứ có thể, từ luật pháp, công nghệ để giảm lượng người thưởng thức nhạc trên web, dĩ nhiên ngoại trừ một số trường hợp đã phải chấp nhận "sống chung với lũ". Nhưng rõ ràng, quá khó khiến một ai kia xóa sạch file mp3 trên máy và hăm hở đi đến các câu lạc bộ nhạc jazz.
Jazz của nhan sắc
Louis Armstrong
Trong thời buổi giá trị "nhìn" vươn lên bằng vai phải lứa với "nghe", thì jazz vẫn kiên định lập trường: Tớ không thể là loại nhạc của hình thể. Hơn ai hết, các nghệ sĩ jazz là người tán đồng câu "tốt gỗ hơn tốt nước sơn". Nhìn lại những tượng đài nhạc jazz xưa nay, có gương mặt nào mà không khắc khổ. Các giọng hát nữ như Billie Holiday, Sarah Vaughan, Nina Simone… đều sở hữu nhan sắc khó có thể cho là đẹp trong khi giọng hát mê hồn xúc cảm. Các bậc thầy như Louis Armstrong hay Duke Ellington càng không hề cuốn hút về vẻ ngoài. 
Nhưng, tình hình bắt đầu thay đổi khi một thế hệ mới, khởi đầu từ đầu thiên niên kỷ này, đã mang lại một nhan sắc mới cho jazz, cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Michael Buble khởi đầu sự nghiệp bằng việc hát lại các ca khúc cũ xưa, sao cho càng giống y chang Frank Sinatra hay Tony Bennett càng tốt. Năm 2003, trong list đĩa nhạc đầu tay của chàng trai Canada này có những bản jazz kinh điển như Fever; The way you look tonight cho đến You'll never find another love like mine của Lou Rawls hay How can you mend a broken heart? của BeeGees (chính ông anh cả của nhóm là Barry Gibb đã hát bè trong phần trình bày này). Đến album thứ nhì năm 2005, giữa các bản nhạc cũng kinh điển như Feeling good, Quando, Quando, Quando; I've got you under my skin là các bản nhạc mới hơn như You and I của Stevie Wonder; Can't buy me love của The Beatles… Đặc biệt, giữa các bản nhạc đó, Michael đã khéo léo "trà trộn" một bài hát mới toanh do chính mình sáng tác, bài Home. Việc "trà trộn" này gần như không ai nhận ra bởi Home được sáng tác và trình diễn cùng một màu với những ca khúc cũ xưa kia. 
Michael Buble
Thừa thắng xông lên, đến album thứ ba, Call Me Irresponsible tung ra năm 2007, có hai sáng tác mới của Michael được chen vào là bài Lost và Everything. Trong đó Everything leo lên được hạng 46 trong top Billboard Hot 100, vị trí cao nhất mà Michael từng có. Không chỉ mang đến cho jazz một vẻ trẻ trung bên ngoài, Michael còn kéo người nghe tiếp cận với các tác phẩm kinh điển dễ dàng hơn bằng âm hưởng đúng thời đại. Giữa I've got the world on a string do Louis Armstrong trình bày và do Michael Buble hát, người trẻ sẽ chắc chắn bị cuốn hút hơn với Michael Buble. Biết đâu, nhờ sự cuốn hút ban đầu đó, người trẻ sẽ tìm tòi, lại phát hiện ra những version khác của Louis Armstrong, của Frank Sinatra, của Jo Stafford…
Peter Cincotti
So với Michael Buble sinh năm 1975 thì Peter Cincotti còn trẻ trung hơn nữa. Sinh năm 1983, sự nghiệp của Peter chưa hoành tráng bằng Michael Buble nhưng cũng gây được dấu ấn với 3 album khá đều đặn. Một gương mặt nam đáng chú ý khác là Jamie Cullum, hơi có vẻ ngỗ nghịch và phá cách hơn so với 2 chàng trai kia, nhưng cũng là một cái tên không thể bỏ qua nếu tìm nghe jazz trẻ. 

Katie Melua
Thế nhưng tương lai của jazz thật sự tươi tắn và sáng sủa hơn nhiều khi nhìn từ các cô nàng trẻ đẹp. Một loạt các gương mặt Norah Jones, Katie Melua, Madeleine Peyroux khiến người ta phải nhiều lần nhắc đến từ jazz khi chọn mua đĩa mới. Trong đó, Norah Jones nổi bật nhất, với hàng loạt giải thưởng Grammy hoành tráng. Hai năm gần đây, lại có những gương mặt đến từ nước Anh, chơi kiểu nhạc xa xưa, jazz blues chập chùng pha chút soul mùi mẫn và cũng giành được kha khá giải thưởng. Đó là Duffy, là Adele, là Joss Stone… Các nhân vật thuộc thế hệ jazz trẻ này có công lớn khi hồi sức cho jazz, nỗ lực đưa jazz đến gần hơn với công chúng trẻ. Họ vẫn đóng bộ comple, vẫn tề chỉnh từng centimet trên sân khấu nhưng trẻ trung và đẹp trai hơn. Họ vẫn đầm dài chấm đất, vẫn kín đáo kiêu sa nhưng tươi tắn và quyến rũ hơn. 
Amy Winehouse
Nước Anh hiện có một nhân vật rất đặc biệt là Amy Winehouse. Vẻ ngoài quái dị, lối sống kỳ khôi cùng thói quen gây scandal, có vẻ như Amy là đề tài yêu thích của các tạp chí lá cải. Thế nhưng không thể phủ nhận cô là một nữ ca sĩ jazz thật sự có tài và kiểu nhạc mà Amy diễn đầy chất cũ xưa. Album Back to black với những sáng tác mới của chính Amy đã thu về 5 giải Grammy, xuất hiện trong hầu hết danh sách đĩa nhạc hay nhất của năm do giới phê bình bầu chọn. Cũng như thời trang, người ta thường gắn hình dung từ "sang" với tính từ "già". Nhưng với jazz thì không. Jazz vẫn trẻ, vẫn quyến rũ mà vẫn chẳng hề mất đi vẻ sang trọng đẳng cấp được bảo chứng gần trăm năm qua.

Trí Quyền

Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2015

Chàng lãng tử Passenger

Only hate the road when you’re missin' home
Sự thành công quá rực rỡ của Let her go, với phần lời nói lên tâm sự của khá nhiều người, đã làm lu mờ những tác phẩm khác của Passenger, tên thật Michael David Rosenberg. Chàng ca sĩ nhạc folk sinh năm 84 này đã có thời gian hoạt động khá lâu dài, khởi đầu với ban nhạc tên Passenger từ năm 2003 đến 2009. 
Nhóm Passenger
Sau khi ban nhạc tan rã, Michael tiếp tục sự nghiệp solo và giữ nguyên cái tên Passenger. Có sự khác biệt dễ nhận ra giữa các album sau này với album Wicked Man's Rest, thời Passenger còn là một ban nhạc. Wicked Man’s Rest có âm nhạc lóng lánh và phức tạp hơn. Từ khi chỉ còn một người bao sân toàn bộ, Passenger chơi nhạc mộc mạc và giản dị.
Album All the little lights là bước ngoặc của Passenger với bài Let her go, nhắc về những luyến tiếc muộn màng khi mọi thứ đã đổi thay. Người ta trông đợi về giấc mơ sẽ kéo dài mãi nhưng giấc mơ thường đến chậm nhưng lại đi nhanh, tình yêu cũng vậy. Trở thành một ngôi sao nhạc folk, Passenger thực hiện nhiều chuyến lưu diễn ở Anh, Úc, New Zealand và khu vực Bắc Mỹ, đồng hành cùng Ed Sheeran, người có chất nhạc rất gần với anh và là một người bạn từ thuở nhỏ. 
Passenger và Ed Sheeran
Năm 2014, Whispers được phát hành và Whisper II vừa được tung ra hồi tháng 4/2015. Cả hai đĩa nhạc đều gần gũi và khá nhất quán nên được đặt tên thành phần một và hai. Bìa album giống như một cuốn sách cũ hay tập tô màu đang là trào lưu của các bạn trẻ hiện nay. Whispers có ảnh cô bé thì thầm với cậu bé đang ngồi trên băng ghế. Whispers II là cụ ông thì thầm vào tai cụ bà, cũng ngồi trên băng ghế. Vẻ mặt ở hai bức tranh đều tươi tắn và chắc là cùng một cặp nhân vật, từ bé đến già vẫn bên cạnh nhau, trò chuyện. Những lời thì thầm của Passenger nhặt nhạnh nhiều câu chuyện nhỏ, vụn vặt trong cuộc sống.
Fear is dark but my love is a lantern
Coins in the fountain mở đầu đĩa Whispers là một bài hát xuất sắc, tươi vui và đầy tinh thần lạc quan. “Sợ hãi giống như bóng đêm còn tình yêu giống như ngọn đèn, chiếu sáng lấp lánh như những đồng xu may mắn trong hồ nước. Hy vọng là cây mọc trên ngọn núi, dù đó là nơi cỏ chẳng thể nào mọc được. Nỗi buồn như đại dương lâu đời còn tình yêu là hòn đảo, hoang dại và tự do. Hy vọng là ngọn gió đưa tôi trở về đất liền, nơi có hoa cỏ xanh tươi.” Bài hát ngợi ca tình yêu hết mực “Tình yêu là bài hát duy nhất mà tôi hát, là những từ ngữ chân thực nhất, là những cánh chim cuối cùng trong mùa đông. Tôi sẽ hát cho đến khi không thể hát nữa, cho đến khi cổ họng khô ran.”
“27” kế đó là một bài hát cũng rộn rã nhưng thái độ lại rất thoải mái, bất cần. Đó là độ tuổi định mệnh khi nhiều ngôi sao đặc biệt dòng nhạc rock đã qua đời ở độ tuổi này. Nhưng với Passenger, đó là khi anh có tuyên ngôn nghệ thuật của riêng mình. Anh nghe mọi người cứ nói muốn bán chạy đĩa nhạc thì phải bán linh hồn cho quỷ dữ nhưng anh thì chỉ viết những bài hát xuất phát từ trái tim mình, mặc kệ có lọt được vào bảng xếp hạng hay không. Điều mà anh biết ở độ tuổi 27 là chẳng thể nào làm hài lòng được tất cả mọi người bởi hở chút là họ lại đổi ý. Anh có những tổng kết khá hài hước: hai mươi bảy năm qua, anh dành hết tổng cộng 8 năm để ngủ nhưng lần nào thức dậy cũng thấy uể oải muốn ngủ thêm. Thời gian để ăn là cả năm trời nhưng anh vẫn bị sút cân. Chuyện đánh răng tổng cộng trong 27 năm tính ra một tuần, cắt tóc cũng mất thêm một tuần. Hút 87.000 điếu thuốc và mỗi ngày đều mong là mình không hút điếu nào. Có 5 cô bạn gái nếu tính những mối quan hệ đàng hoàng và có đúng 5 vụ chia tay đầy lộn xộn. Viết 600 bài hát nhưng chỉ có 12 bài là được hát lên. Kiếm được 30.000 bảng Anh chỉ để dành uống bia. Nhưng sau bài tổng kết có vẻ chẳng hay ho gì, tinh thần của chàng nghệ sĩ vẫn hết sức lạc quan, “không biết mình đang chạy đi đâu nhưng ít ra là mình biết chạy”! Golden Hearts là một bài hát có giai điệu hay, nhẹ nhàng và hoài niệm, nhớ về những khoảnh khắc xa xưa, khi tình yêu mới bắt đầu, họ còn trẻ trung, “đôi mắt rực sáng như mặt trời Tây Ban Nha và chẳng có gì để che giấu nhau.” Khi đó, mọi thứ ngập tràn hy vọng còn giờ đây chỉ đầy ngờ vực. Mấy câu chuyện cười khi xưa giờ chẳng còn thấy vui. “Chúng ta như cặp lá vàng, tuyệt vọng bám lấy cành trong mùa đông”
Fear of fear mở đầu Whispers II lại là cảm giác lạc lõng, tìm mọi cách để lấp đầy khoảng trống mà người yêu để lại. Cố nốc bia đầy bụng, rít khói đầy phổi, mỗi đêm kể những câu chuyện cười nhạt nhẽo, cố giết thời gian khi người yêu không còn bên cạnh.
Catch in the dark kể về một người bạn, có thể là người yêu cũ, có thể là một tình yêu thầm kín, người mà anh đã dại dột để ra đi mang theo trái tim của anh. Nhưng cô vẫn xem anh như một người bạn thân, mỗi lần thất tình đau khổ lại tìm đến anh để tâm sự và hỏi anh tại sao những người đàn ông của cô đều ra đi. Anh nói những gì mà một người bạn cần nói, cô ngồi đó, lắng nghe và rồi lại bỏ ra đi, lại đến khi khổ đau. Cô chẳng bao giờ tin vào những người hiểu cô nhất mà anh là một trong số đó. Yêu cô giống như phải chụp banh trong bóng tối và anh chỉ là giọt nước mắt chẳng thể nào làm gì với một biển lửa. Cô gái nói đùa nếu đến độ 40 tuổi mà cả hai còn độc thân thì họ sẽ cưới nhau và dọn về quê ở. “Nhưng tôi biết cô ấy chẳng bao giờ muốn lấy tôi.” Ở A Thousand Match là một cuộc trò chuyện cùng cô em gái của người bạn và nhắc lại một ý từ Let her go “Khi yêu ai đó, đôi khi cần phải để họ ra đi”
David là một câu chuyện khác, một người đàn ông xa lạ mà anh gặp bên ngoài lữ quán. David độ ngũ tuần, vốn là thợ hàn ở bến tàu nhưng giờ đây chẳng ai còn nhận ông vào làm việc vì tay cứ run rẩy. David tựa đầu vào tường và kể “tôi có một người vợ cũ không thèm nghe tôi, một đứa con chẳng bao giờ gọi cho tôi. Mỗi tháng, lúc nào tôi cũng thiếu trước hụt sau vì tiền chu cấp cho con. Tòa phán quyết rằng tôi liều lĩnh và thiếu trách nhiệm. Chẳng ai lại có một kế hoạch ở độ tuổi trung niên lại ngồi bên ngoài quán trọ, bắt tay những người lạ. Tôi uống rượu sạch cả tiền và dáng vẻ bên ngoài hết sức bệnh hoạn, chỉ còn là cái bóng nhạt nhòa.” Giống như lát cắt từ một truyện của Nguyên Hồng, “David” có lời nhận xét của tác giả ở đoạn điệp khúc “Thế giới đã đổi thay khi ông đắm chìm mình trong căn phòng tối. Nhìn vào mắt ông và nghe giọng ông nói, tôi biết rằng chúng tôi đã đánh mất ông từ lâu rồi.”


Trong rất nhiều ca khúc, Passenger nói về chuyện hát như cách thức giải stress và yêu như một liệu pháp đánh tan mọi sợ hãi. Niềm hy vọng có mặt trong hầu hết các ca khúc. Và anh cũng mong muốn con người tận hưởng cuộc sống một cách khoáng đạt hơn “Chúng ta nên chạy băng rừng, nên bơi trong suối, nên cười khóc, mơ mộng, yêu thương, nên nhìn những ánh sao trên bầu trời thay vì những màn hình điện tử. Chúng tôi muốn những điều chân thật chứ không phải chỉ hashtag và Twitter,” anh hát trong bài Scare away the dark. Với giọng hát rất đặc trưng và tiếng guitar lăn tăn, Passenger tung tẩy những lời hát đôi khi rất rõ ràng, đôi khi đầy tính ẩn dụ, sử dụng nhiều thủ pháp chơi chữ. Gần như không bài hát nào là lời đối thoại trực tiếp mà thường là “tôi” và “cô ấy” hoặc một nhân vật thứ 3 nào đó. Phần lời cũng phản ánh cuộc sống du ca rày đây mai đó khi nhiều tình huống gặp gỡ trong bài hát là ở một khách sạn xa lạ.

Nếu không có Ed Sheeran, chắc chắn Passenger là người hốt trọn các giải thưởng quan trọng ở Anh như Brit Awards và Ivor Novello. Có chút kém may mắn và anh xứng đáng được công chúng tán thưởng nhiều hơn.
Link nghe nhạc
Whispers
http://xmusic-apps.com/p/eqx8mcevAHmd 
Whispers II
http://xmusic-apps.com/p/uEEuoXQn3rdn 
Trí Quyền